Bảo tồn Dalat, Chuyện công trình mới, cũ, rồi di sản nói mãi chẳng hết.
Di sản không chỉ được định nghĩa là một công trình cũ, được xây dựng từ ngày xửa ngày xưa. Có những công trình cũ, đứng đó một hai trăm năm cũng chẳng thể gọi là di sản.
Nói vậy để thấy, công trình cũng như đời người, giá trị của nó cần được xác định bởi giá trị tự thân và mối quan hệ, ảnh hưởng của nó đến môi trường, bầu không khí đô thị.
KTS Lê Quang.
Bảo tồn di sản phải là một khoản “đầu tư” chứ không phải là một “chi phí”
Dù chưa được làm việc ở Việt Nam nhiều, nhưng tôi đã tham gia các đồ án cải tạo, bảo tồn di sản, tái định hướng các thành phố nhỏ hoặc thị trấn ở nước ngoài.
Vai trò dù nhiều hay ít, phải thiết kế sàn lớn hay sàn nhỏ đối với tôi đều như nhau, đều phải tận tâm tận lực và coi mỗi một dịp đó là một dịp để học thêm, biết thêm.
Khi tham gia vào các đồ án này, tôi nhận ra một thực tế đó là vai trò của Kiến trúc sư (KTS) chỉ là một phần nhỏ trong đồ án. Thông thường khi KTS bắt đầu tham gia nghiên cứu phương án kiến trúc thì đã có một cuộc nghiên cứu tiền dự án với quy mô lớn xảy ra trước đó.
Giai đoạn này được gọi là nghiên cứu tiền khả thi, nghiên cứu này được thực hiện bởi những ai? Nó được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu xã hội, giới chủ đầu tư, thành phố, đại diện Hội đồng nhân dân, các chuyên gia về cảnh quan phức hợp đô thị, các chuyên gia về bảo tồn di sản, đội ngũ tư vấn về địa kinh tế, địa chính trị, tư vấn về chuỗi chương trình (programming)…
Các thành phần này sẽ làm việc rất nghiêm túc để đưa ra những đánh giá chi tiết cho tiềm năng của sự “phát triển” ở địa phương đó chứ người ta không bàn chỉ nói về chuyện giữ lại cái gì hay phá bỏ cái gì. Nghiên cứu liên ngành là vậy.
Nói đến sự ‘’phát triển’’, người Việt Nam thường nghĩ ngay đến việc đập đi xây mới và dễ có liên tưởng đến văn hóa tiêu dùng.
Nguyên nhân do tư tưởng đặc thù cố hữu của chúng ta, cái gì cũng phải mới, phải đàng hoàng, to đẹp. Đã “cũ” thì chỉ là tàn dư, cần loại bỏ đề bước vào một thời đại mới.
Đối với những nhà nghiên cứu tiền khả thi của đồ án nhất là dự án bảo tồn di sản, sự “phát triển” được hiểu theo một hướng rất khác, họ sẽ chỉ tập trung vào chứng minh bảo tồn di sản văn hóa là một khoản “đầu tư” chứ không phải là một “chi phí”.
Nếu không chứng minh được thì họ sẽ không coi đối tượng nghiên cứu là di sản. Tất cả các vấn đề đều phải xoay quanh kinh tế chính trị.
Từ những năm 1950, các thành phố châu Âu đã gánh chịu nhiều hậu quả do sự tăng trưởng kinh tế đã làm mờ đi bản sắc đô thị dày đặc và trầm tích của họ. Chính vì thế, trong nghiên cứu, các đơn vị tham gia phải đấu tranh với nhau để nhấn mạnh vai trò của phát triển để đảm bảo đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại, mà không ảnh hưởng đến đồng thời, khả năng các thế hệ tương lai đạt được chúng (trách nhiệm liên thế hệ trong sử dụng tài nguyên).
Cần có các nghiên cứu điển hình (Case Study) ở các tỷ lệ và quy mô khác nhau:
Trở lại với tựa đề của bài viết bảo tồn dalat | chuồng bò ở Đức và rạp Hòa Bình ở Đà Lạt.
Tựa đề này không hề có ý hạ thấp giá trị của các công trình ở Đà Lạt hay nâng tầm một chuồng bò vô danh bên châu Âu.
Nó chỉ ám chỉ rằng các công trình cũ cần được đánh giá, xem xét để nhận ra rằng là một di sản hay không phải là một di sản. Khi tham gia vào một đồ án nọ ở miền trung nước Đức, tôi cũng băn khoăn không biết có nên giữ lại một cấu trúc trên mặt bằng tổng thể hay là loại bỏ nó.
Sau khi làm việc với nhóm nghiên cứu tiền khả thi thì được biết đó là một cái chuồng bò cũ được xây cách đây 120 năm. Nhà rất cũ, sàn mục ruỗng, cột kèo xiêu vẹo. Người thường nhìn vào chắc cũng chỉ muốn phá banh ra mà xây vào đấy cái quán rượu cho xong (làng này xưa truyền thống nấu rượu và chăn nuôi gia súc).
Sau nhiều cuộc thảo luận với nhóm nghiên cứu tiền khả thi, nhóm đã đi đến kết luận sau: “Phải giữ lại cái chuồng bò đấy như một phần di sản của làng”. Các tài liệu phân tích nghiên cứu hàng trăm trang bao gồm bản vẽ, thống kê, phiếu phỏng vấn, các bảng tính toán về độ hiệu quả kinh tế, đầu tư, khả năng tạo ra lợi nhuận… được gửi cho tôi và qua đó nêu bật lên các ý sau:
1. Nó được coi là cấu trúc nhân tạo văn hóa xuất hiện qua hơn một thế kỷ. Đó là di sản (ký ức văn hóa) của các thế hệ trong quá khứ phải chuyển sang thế hệ tương lai (được coi như trung tâm lịch sử) như một yếu tố cơ bản của bản sắc.
2.Nó được coi là cảnh quan xã hội nằm trong các mạng xã hội/ dân sự. Sự đóng góp của nó vào tổng mặt bằng nhằm làm chặt chẽ cơ cấu và quy mô của tổng mặt bằng, từ đó tạo ra yếu tố mật độ xây dựng và quyết định đến bầu không khí (density & atmostphere) của cảnh quan xã hội (không phải cứ thoáng đãng, to đẹp, khang trang đã là hay, nhiều khi phải bé, vì dân ở đấy họ quen bé rồi, to không chịu được, dân mỗi nơi một khác, không đem so dân ở làng với dân ở đô thị lớn được).
3. Nó là cấu trúc phản ánh chuyên môn, kiến thức địa phương, tinh thần kinh doanh địa phương, sự sáng tạo của người dân địa phương trong một thời điểm của quá khứ. Nó giúp cho con người ở đó khác với con người ở chỗ khác (cấu trúc cũ trên thực tế, dù cũ nhưng đẹp, phản ánh tinh hoa kinh nghiệm xây dựng một thời – xem ảnh).
4. Nó đóng góp vào cảnh quan tài chính – kinh tế lâu năm của địa phương bao gồm các tổ chức tín dụng địa phương, hợp tác xã, kho thóc, xưởng làm việc… được thúc đẩy bởi dân địa phương và có khả năng kích thích du lịch nếu được tôn tạo với chức năng mới.
5. Các đánh giá và bản vẽ ghi lại nguyên trạng của công trình, chứng minh tính khả thi của nó khi được tái tạo trong một chức năng mới trên tổng mặt bằng (phần này là rất quan trọng đối với bất cứ công trình cũ nào bởi phấn đánh giá này sẽ giúp nhóm nghiên cứu có thể dự tính được độ khả thi của hoạt động tôn tạo).
6. Dựa vào 5 ý chính trên, nhóm nghiên cứu và KTS thống nhất rằng cái chuồng bò là một thành phần không nên tách rời khỏi “phức hợp cảnh quan di sản” của ngôi làng đó (“complex urban landscape of historic urban”) và nó phải được đối xử như một Di sản.
Trên mặt bằng tổng thể, nhiều công trình khác dù rất cũ như kho thóc, chuồng cừu, tháp chuông nhưng vẫn bị loại bỏ do không đảm bảo được các yếu tố tạo nên di sản như trên (chứ không phải là người ta tìm cách để giữ tất cả).
Điều này có nghĩa là đôi khi một công trình đơn lẻ thì không tạo nên di sản, di sản có thể được tạo nên bởi một tập hợp các công trình đơn lẻ, nó được gọi như trên: “phức hợp cảnh quan di sản nhân tạo”.
Những liên tưởng rất gần với bảo tồn dalat nói riêng và thiết kế bảo tồn di sản nói chung.
Giống như khi ta nói “cây đa, giếng nước, sân đình” thì nó gợi lên một bầu không khí, một ấn tượng cụ thể, còn nếu ta chỉ nói “giếng nước” thì nó không gây ra ấn tượng đặc thù nào cả. Bàn về di sản thì cần phải quan sát từ nhiều quy mô, tỷ lệ như vậy.
Trong giai đoạn KTS nghiên cứu giải pháp về kiến trúc, khi gặp các vấn đề cần hỗ trợ, KTS có quyền khởi động một cuộc thảo luận như phía trên hoặc anh ta sẽ được yêu cầu giải đáp các vấn đề của các bộ môn khác khi cần thiết.
Kiến trúc Sư không phải là người duy nhất quyết định đến quy hoạch đô thị.
Nó là những cuộc đối thoại, tính toán, cân nhắc từng li từng tý một và tất cả nhằm hướng tới sự “phát triển” chứ không phải là chuyện giữ hay bỏ, nhiều tiền hay ít tiền, đẹp hay xấu (theo chủ quan).
Đó là sự dân chủ trong định hướng phát triển đô thị và loại bỏ yếu tố “lợi ích nhóm” mà chúng ta thường nhắc đến như một kẻ thù vô định.
Từ chuyện cái chuồng bò di sản ở ngôi làng nọ, ta thấy rằng việc đánh giá tính khả thi trong bảo tồn di sản cần được lập nghiên cứu nghiêm túc và phải rất thực tế, công bằng, không đem ân oán cá nhân vào. Nếu đem ân oán cá nhân vào thì người ta đã chẳng giữ lại đấu trường La Mã làm gì.
Việc giữ lại hay phá dỡ cũng không được phép duy ý chí mà phải liên tục kiểm chứng các nhận định thông qua các tình huống nghiên cứu điển hình. KTS tham gia vào đồ án cũng nên thường xuyên đặt câu hỏi, thắc mắc để được lắng nghe và giải thích về định hướng phát triển của nhóm tiền dự án (bởi có rất nhiều vấn đề nằm ngoài chuyên môn của KTS).
Thời đi học, có những lúc thực hành các “biện pháp can thiệp” trong các đô thị cổ, tôi thường sa vào lạm dụng kĩ năng thiết kế mà không làm đánh giá khả thi. Thầy giáo tôi thường bảo: “Người ta mất 500 năm mới có được một thành phố, sờ vào cái 500 năm đấy, em nghĩ em thiết kế được gì?”.
Thầy giáo này nức tiếng thế giới, đạt giải tương đương giải Priztker (tương đương giải Nobel), chuyên môn rất giỏi nhưng cũng phải đến sau này khi thực hành thực tế rồi tôi mới nhận ra là thầy dạy phải lắm.
Bên lề chuyện bảo tồn Dalat và thiết kế bảo tồn.
Chúng ta có thể có nhiều kiến trúc sư giỏi, có cá tính thiết kế. Nhưng nếu ta đặt họ vào một bộ máy, một cách vận hành sai lầm thì sản phẩm ta thu lại vẫn có thể tồi. Kiến trúc sư không phải là Chúa trời mặc dù cái công việc mà họ làm dễ khiến người ta liên tưởng đến hình dung đó.
Ở nhiều nước đang phát triển, Kiến trúc sư thường rất giỏi đưa ra các giải pháp mà đôi khi họ chưa nghĩ đến việc đặt ra các câu hỏi hoặc nghi ngờ các câu hỏi. Và trong nhiều trường hợp, người ta vận dụng tất cả những kĩ năng tốt nhất mà họ có để đi tìm lời giải đúng cho một câu hỏi sai.
Câu chuyện bảo tồn Dalat – Ở trường hợp khu Hòa Bình của Đà Lạt, mặc dù chưa có điều kiện để xem bộ nghiên cứu tiền khả thi, nhưng khi nhìn sản phẩm cuối thì cá nhân tôi đoán rằng nghiên cứu tiền khả thi có thể còn sơ sài và có lẽ người ta phải cẩn trọng hơn.
Các KTS quan sát viên, các KTS trực tiếp tham gia vào đề tài và cả các đơn vị nghiên cứu tiền khả thi, do đó cũng cần có những thảo luận dân chủ hơn để rộng đường dư luận.
Việc công bố một phần của bộ tài liệu nghiên cứu là hoàn toàn có thể chấp nhận được, nhất là khi nó được cho là đã được hoàn thành. Đối với các công trình cũ, để giải đáp nỗi hoang mang của quần chúng thì nhóm nghiên cứu có thể giải trình các bản nghiên cứu và bản vẽ hiện trạng.
Suy cho cùng công trình cũ là đáng quý nhưng cũng chính là do con người tạo nên chứ không phải ở trên trời rơi xuống.
Các công trình cũ đã ở đó và chứng kiến nhiều đổi thay của xã hội, chứng kiến nhiều thế hệ sinh ra và lớn lên. Phần xác của chúng thì nuôi dưỡng con người bằng các chức năng, còn phần hồn, nó hiện ra sống động trong tâm tưởng của mỗi người.
Đấy chính là lí do vì sao người ta lại hoài niệm, điều đó cần được tôn trọng. Sự phát triển là yếu tố tất yếu, tuy vậy nó chỉ có thể có nếu như các hoạt động chuyên môn định hướng tầm nhìn được diễn ra minh bạch và dân chủ. Một đô thị được phép lột xác nhưng nó không nên bỏ rơi lại phía sau những con người đô thị, những người đã góp phần tạo nên chính nó.
Ông thầy già hay nặng lời rằng phải mất 500 năm mới có được một thành phố, đấy là vì ông ấy không muốn nói rằng để phá hủy một thành phố, người ta chỉ cần có một quyết định sai lầm trong một khoảnh khắc mà thôi.
Tác giả: KTS Lê Quang.
Nguồn bài viết: Báo Tia Sáng
http://www.tiasang.com.vn/-dien-dan/Quy-hoach-Da-Lat-Co-tra-loi-cho-mot-cau-hoi-sai–15281
Bài Viết liên quan: Wang Shu – Người nghệ nhân thổi hồn kiến trúc thủ công.